BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận về truyền thông quyền con người cho sinh viên; tầm quan trọng của việc truyền thông về quyền con người cho sinh viên hiện nay; đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên. Bài viết là sản phẩm của công trình nghiên cứu khoa học mã số: 13.01.24.I.07.

 14 Tháng Mười, 2024

 

1. Mở đầu

Các cơ sở giáo dục đại học có nhiệm vụ chính trị trung tâm là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công tác quản lý, thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ về các lĩnh vực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững kinh tế – xã hội. Từ đó, đặt ra yêu cầu đối với các cơ sở giáo dục đại học phải làm tốt công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp luật, trong đó có truyền thông (tuyên truyền, phổ biến, giáo dục) về quyền con người cho sinh viên nhằm đào tạo ra những thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động vừa hồng, vừa chuyên; tận tụy phục vụ nhân dân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người cho bản thân và người khác trong các mối quan hệ ở nơi làm việc và sinh sống.

2. Truyền thông về quyền con người cho sinh viên

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức, xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, truyền thông có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Truyền thông giúp con người cập nhật thông tin cần thiết phục vụ nhu cầu cuộc sống, sự phát triển của cá nhân và cộng đồng. Đồng thời, các thế lực phản động lợi dụng mạng xã hội để tuyên truyền các quan điểm sai trái về dân chủ, nhân quyền, nhằm thay đổi nhận thức của nhân dân, nhất là sinh viên, dẫn đến thay đổi hành vi, gây nguy hại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Quyền con người có các đặc trưng cơ bản: tính phổ quát; không thể chuyển nhượng; không thể phân chia; các quyền con người phụ thuộc, liên hệ lẫn nhau. Những nguyên tắc cơ bản của quyền con người phải được áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội bao gồm: nguyên tắc bình đẳng; không phân biệt đối xử; nhân phẩm và sự tôn trọng. Những quyền cơ bản của con người bao gồm: Nhóm các quyền dân sự, chính trị; nhóm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.

Ở Việt Nam, quyền con người luôn được tôn trọng và bảo đảm, thể hiện trong chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và được thể chế hóa trong chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người vào cuộc sống, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về quyền con người cho các tầng lớp nhân dân đã được coi trọng. Một trong những cơ chế quan trọng trong bảo vệ quyền con người là phát huy vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc đẩy mạnh truyền thông về quyền con người cho sinh viên ở các cơ sở giáo dục đại học. Ngày 05-9-2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1309/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” để thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về quyền con người. Ngày 14-9-2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1079/QĐ-TTg phê duyệt Đề án truyền thông về quyền con người ở Việt Nam. Đề án nhấn mạnh: Công tác truyền thông về quyền con người phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục với hình thức đa dạng để các tầng lớp nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về quyền con người; đấu tranh, phê phán những quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc về thực thi quyền con người ở Việt Nam. Mục tiêu của Đề án 1079 là tạo sự chuyển biến trong nhận thức, hiểu biết của toàn xã hội về các quyền con người; thông tin đầy đủ giúp người dân trong nước, đồng bào ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu rõ về quan điểm, chủ trương, nỗ lực và kết quả đạt được trong công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam; nâng cao uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người ở phạm vi trong nước, khu vực và trên thế giới.

Triển khai thực hiện Đề án “Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” từ năm 2017 đã tạo sự chuyển biến trong nhận thức của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, của người học về tầm quan trọng, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác; ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và xã hội, góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững đất nước.

Theo đó, truyền thông về quyền con người cho sinh viên là quá trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục thường xuyên, liên tục về quyền con người, nhằm cung cấp cho sinh viên nền tảng kiến thức cơ bản về quyền con người; quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người; những thành tựu đạt được trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức; xây dựng niềm tin, thái độ tích cực và hành vi đúng đắn trong bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con người; đấu tranh phản bác những luận điểm sai trái về dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

3. Thực trạng công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên hiện nay

Thực tiễn công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp luật của các cơ sở giáo dục đại học đã được đảng ủy, ban giám hiệu các cơ sở giáo dục đại học quan tâm, góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và về quyền con người nói riêng. Qua nghiên cứu văn bản, báo cáo, sử dụng phương pháp quan sát, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học ở hai cơ sở giáo dục đại học (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội và Học viện Hành chính quốc gia), công tác tuyên truyền về quyền con người cho sinh viên đã đạt được những kết quả nhất định.

Việc học tập, nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và các cấp ủy đảng cấp trên; chính sách, pháp luật của Nhà nước được các cấp ủy nhà trường tổ chức thường xuyên. Các cấp ủy, chi bộ tổ chức nhiều nội dung chuyên đề gắn với các nhiệm vụ chính trị của cơ quan; thường xuyên nắm bắt và định hướng kịp thời tình hình tư tưởng, dư luận, công tác thông tin cho cán bộ, đảng viên, viên chức, người lao động, học viên và sinh viên. Trong trường không có vụ việc vi phạm, điểm nóng về tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp luật; không có vụ việc vi phạm pháp luật về quyền con người.

“Thực tiễn công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp luật của các cơ sở giáo dục đại học đã được đảng ủy, ban giám hiệu các cơ sở giáo dục đại học quan tâm, góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và về quyền con người nói riêng.”

Các phòng chức năng, các khoa cùng đội ngũ viên chức quản lý, giảng viên các trường đã quan tâm, bảo đảm quyền lợi cho sinh viên như: Ban hành cụ thể các quy định liên quan đến người học; phổ biến các quyền lợi của sinh viên ngay trong tuần sinh hoạt công dân đầu khóa và trong suốt khóa học, bảo đảm quyền được học tập, được đối xử bình đẳng, tạo cơ hội học tập cho mọi sinh viên.

Thực hiện nhiều hoạt động trao đổi, tương tác hai chiều thông qua hội nghị đối thoại, lấy ý kiến giữa lãnh đạo trường và lãnh đạo các phòng, khoa, giảng viên, chuyên viên với sinh viên; tiếp thu phản hồi các ý kiến của sinh viên về chương trình đào tạo, sắp xếp thời khóa biểu, học phí, cơ sở vật chất, điều kiện phục vụ dạy và học; phúc khảo điểm thi… cũng như các hoạt động khác của nhà trường.

Tạo điều kiện để sinh viên tham gia góp ý kiến trong kiểm định chất lượng; bảo đảm đầy đủ quyền lợi của sinh viên trong thực hiện các chính sách về học phí, học bổng, chăm sóc sức khỏe; tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao; các hoạt động đoàn thể, xã hội. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên tôn trọng ý kiến phát biểu của sinh viên, thẳng thắn trao đổi cùng làm rõ và đi đến thống nhất quan điểm, lấy sinh viên làm trung tâm.

Kết quả công tác truyền thông, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về quyền con người cho sinh viên được đánh giá bằng phương pháp điều tra xã hội học đối với 416 sinh viên (gồm sinh viên các năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư) của Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội và Học viện Hành chính quốc gia cho thấy một số điểm tích cực về nhận thức, thái độ, niềm tin, kỹ năng của sinh viên đối với các vấn đề liên quan quyền con người.

Đánh giá hiểu biết của sinh viên về nội hàm khái niệm quyền con người, 82,5% sinh viên được hỏi trả lời “Rất đồng tình” với các nội dung cơ bản trong khái niệm quyền con người: “Quyền con người là tự nhiên, vốn có”; “Quyền con người là nhân phẩm của con người” và 85,5% “Rất đồng tình” với “Quyền con người phải được pháp luật thừa nhận và bảo vệ”; còn lại là các ý kiến lựa chọn “Đồng tình”. Kết quả này cho thấy, sinh có hiểu biết cơ bản về quyền con người.

Đánh giá thái độ, kỹ năng ứng xử của sinh viên trước một số tình huống giả định về nhận thức trong việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong môi trường học tập:

Với tình huống: “Trước một bạn có ý kiến khác với nhiều người trong học tập trên lớp, trong họp lớp, họp nhóm, bạn nghĩ gì và có thái độ như thế nào?” có 36,5% sinh viên được hỏi lựa chọn phương án “Sẽ suy nghĩ về ý kiến của bạn và thể hiện sự tôn trọng ý kiến của bạn” và 47,7% “Sẽ suy nghĩ về ý kiến của bạn và đề nghị các bạn trong lớp/nhóm hãy suy nghĩ để tìm ra điểm hợp lý trong ý kiến của bạn”. Tổng cộng sinh viên chọn 2 phương án là 84,2%. Điều đó phản ánh sự hiểu biết nhất định của sinh về quyền con người, có thái độ và hành vi ứng xử phù hợp với nguyên tắc cơ bản hay giá trị cốt lõi của quyền con người (bình đẳng, không phân biệt đối xử, nhân phẩm và giá trị cốt lõi của quyền con người).

Thái độ và cách ứng xử phù hợp với nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm (công nhận quan điểm, ước muốn, phẩm chất và sự khác biệt) của người khác cũng thể hiện qua kết quả khảo sát sinh viên ở tình huống: “Khi nhìn thấy một bạn trong lớp mặc trang phục và nhuộm tóc rất rực rỡ, khác người thì bạn sẽ làm gì?”: có 61,3% sinh viên chọn phương án: “Có hành động làm thân với bạn và nói với bạn rằng: Việc mặc trang phục và nhuộm màu tóc gì là quyền của bạn, nhưng bạn có thể cân nhắc về việc có phù hợp với môi trường trường học không bạn nhé”. Kết quả này cho thấy sinh viên hiểu được quyền và nghĩa vụ luôn song hành với nhau; quyền con người luôn được đặt trong mối quan hệ cá nhân với tập thể, cộng đồng và xã hội; quyền con người phải được pháp luật thừa nhận, bảo vệ và phải được đặt trong khuôn khổ của pháp luật, thể hiện sự tôn trọng lợi ích cá nhân đồng thời tôn trọng lợi ích của tập thể, xã hội và thể hiện tính nhân văn.

Với tình huống: “Khi nhìn thấy một bạn bị khuyết tật ở chân, có dáng đi rất dễ gây cười, đi trong khuôn viên trường, bạn sẽ làm gì?”. Qua khảo sát, 64,1% sinh viên được hỏi lựa chọn phương án “Nhìn bạn với sự cảm thông và sẽ nói với bạn là: Nếu bạn cần giúp đỡ thì có thể nói với tôi” thể hiện sự tôn trọng quyền con người và phát huy giá trị nhân văn của dân tộc, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ người khác.

Tình huống: “Trong lớp có một bạn gặp một tình huống đặc biệt (bố mẹ vừa ly hôn/ doanh nghiệp gia đình bạn bị phá sản/bạn mang thai ngoài ý muốn khi chưa kết hôn…), bạn sẽ làm gì?”. Qua khảo sát, 49,5% sinh viên lựa chọn: “Khuyên các bạn trong lớp là nên hỏi bạn nếu bạn sẵn sàng chia sẻ tình huống bạn đó đang gặp phải và sẽ giúp đỡ bạn nếu bạn đó có mong muốn, nhu cầu” thể hiện sự tôn trọng quyền riêng tư của bạn và bày tỏ thiện chí giúp đỡ nếu bạn có nhu cầu thể hiện tinh thần nhân văn trong cộng đồng sinh viên. Đây là một cách ứng xử tạo nên dư luận xã hội tích cực.

Tình huống “Bạn có quan điểm thế nào về việc bình luận trên mạng xã hội (Zalo, Facebook …của lớp/trường bạn) về cuộc sống cá nhân hoặc quan điểm cá nhân của một bạn hoặc nhóm bạn khác trong lớp/trường của bạn?”. Kết quả khảo sát cho thấy, 59,2% sinh viên lựa chọn phương án: “Tìm cách đưa ra bình luận theo chiều hướng tích cực, với tinh thần xây dựng cho bạn hoặc nhóm bạn đó”. Đây là cách ứng xử cần được phát huy trong truyền thông về quyền con người cho sinh viên.

Bên cạnh những kết quả đạt được của công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên, còn một số hạn chế, bất cập. Qua quan sát, điều tra xã hội học cho thấy, một số hạn chế về nhận thức, kỹ năng, thái độ về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người của sinh viên. Đó cũng chính là hạn chế của công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên cần được khắc phục trong thời gian tới.

Khi khảo sát sinh viên về nhận thức, thái độ, cách ứng xử mang tính cộng đồng, xã hội trước những tình huống giả định nêu trên, kết quả thu được khác biệt lớn so với cách đánh giá với tư cách cá nhân. Với tình huống một bạn có ý kiến, quan điểm khác với số đông, ngoài một phương án tích cực “Một số người đề nghị các bạn trong lớp/nhóm hãy suy nghĩ để tìm ra điểm hợp lý trong ý kiến của bạn” (45,5%,) thì tập trung vào 3 phương án còn lại: “Nhiều người cùng cười và đưa ra câu bình luận, đánh giá bạn đó là lập dị, muốn thể hiện bản thân, muốn khác người” (17,2%), “Một số người sẽ không làm gì cả và cũng không có ý kiến gì” (19,5%) và “Một số người thể hiện sự tôn trọng ý kiến của bạn” (17,8%).

Với tình huống một bạn gặp trường hợp đặc biệt trong cuộc sống, phương án “Nhiều người cùng hưởng ứng với sự xì xào lan truyền trong lớp về tình huống bạn đó đang gặp phải” có tỷ lệ chọn 7,9%; “Nhiều người cùng hưởng ứng với sự xì xào lan truyền trong lớp về tình huống bạn đó đang gặp phải và đưa ra ý kiến suy diễn của bản thân về bạn đó” (24,5%). Đây là những phương án không phù hợp khi tiếp cận ở góc độ quyền con người cũng như về mặt nhân văn, đạo đức nhưng có tỷ lệ chọn đến 32,4 %.

Ngoài ra, phương án “Không tham gia sự bàn tán trong lớp vì cho đó là việc riêng của bạn” chiếm 28,7%. Qua quan sát, đây là phương án phổ biến trong cuộc sống, nhưng trên góc độ chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng sinh viên thì cần có sự định hướng của các chủ thể truyền thông để có môi trường sư phạm tích cực hơn.

Với tình huống về việc bình luận trên mạng xã hội về cuộc sống cá nhân hoặc quan điểm cá nhân của một bạn hoặc nhóm bạn khác trong lớp/trường, 34,7% chọn “Chỉ đọc mà không bình luận vì không liên quan đến mình”. Đây là phương án “an toàn”, “trung dung” nhưng xét ở góc độ xây dựng, điều này thể hiện sinh viên thiếu nền tảng kiến thức để xác lập thái độ đúng đắn, bản lĩnh vững vàng và kỹ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội liên quan đến quyền con người.

Hạn chế trên do nguyên nhân khách quan và chủ quan. Hiện nay, việc triển khai Đề án “Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” chưa có sự đầu tư toàn diện các nguồn lực (nhân lực, trang thiết bị, hạ tầng thông tin, cơ sở vật chất…). Ngoài ra việc xác định chủ thể truyền thông, nội dung truyền thông, kênh truyền thông, cách thức truyền thông chưa rõ ràng, cụ thể. Qua khảo sát, viên chức quản lý, giảng viên, chuyên viên tự đánh giá mức độ hiểu biết về các nội dung liên quan quyền con người ở mức độ “Bình thường” và có một bộ phận nhỏ lựa chọn “Không biết rõ”. Theo đó, đội ngũ viên chức quản lý, giảng viên, chuyên viên là chủ thể quan trọng của truyền thông về quyền con người cho sinh viên còn hạn chế hiểu biết về quyền con người thì sẽ gặp khó khăn trong triển khai nội dung, cách thức, phương thức truyền thông tới sinh viên.

Công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên trong các hoạt động giáo dục chưa được tiến hành thường xuyên. Kết quả khảo sát, 87,6% sinh viên cho biết hiểu biết của mình về quyền con người chủ yếu từ Internet, mạng xã hội. Bên cạnh đó, sinh viên vừa là đối tượng truyền thông vừa là chủ thể truyền thông nhưng vấn đề quyền con người chưa thật sự là vấn đề được sinh viên quan tâm và dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu. Kết quả khảo sát viên chức quản lý, giảng viên, chuyên viên về việc “đã bao giờ gặp trường hợp sinh viên hỏi về quyền con người, bảo vệ, bảo đảm quyền con người và xin ý kiến giải thích hoặc lời khuyên của anh/chị” thì tỷ lệ chọn “Chưa bao giờ có” cao nhất (55,3%); tiếp theo là 2 phương án: “Một số lần với nhiều sinh viên hỏi, quan tâm” (20,6%); “Một số lần với ít sinh viên hỏi, quan tâm” (24,1%)…

4. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên hiện nay

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của chủ thể truyền thông và đối tượng truyền thông về tầm quan trọng của công tác truyền thông quyền con người cho sinh viên

Trước hết, các chi bộ, đơn vị thuộc các cơ sở giáo dục đại học thực hiện các biện pháp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên đối với đội ngũ viên chức, giảng viên, chuyên viên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Chi bộ triển khai việc đưa nội dung truyền thông về quyền con người cho sinh viên vào sinh hoạt chuyên đề, nâng cao nhận thức về quyền con người và sự cần thiết truyền thông về quyền con người cho sinh viên trong đội ngũ đảng viên. Các phòng chức năng (phòng tổ chức hành chính, công tác sinh viên, đào tạo…), Đoàn Thanh niên cần tiếp tục chủ động đề xuất các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về quyền con người thông qua các buổi tập huấn, bồi dưỡng, các cuộc thi tìm hiểu… về quyền con người trong viên chức quản lý, giảng viên, chuyên viên và sinh viên.

Các khoa/bộ môn đưa nội dung truyền thông về quyền con người cho sinh viên vào sinh hoạt chuyên môn; chỉ đạo đội ngũ giảng viên, cố vấn học tập, cán sự lớp, cán bộ đoàn do khoa quản lý, tích cực tổ chức các diễn đàn sinh hoạt tư tưởng về quyền con người cho sinh viên; lồng ghép truyền thông về quyền con người vào giảng dạy những học phần phù hợp.

Đoàn trường, các chi đoàn, liên chi đoàn, tập thể lớp sinh viên, các câu lạc bộ sinh viên cần tích cực, chủ động tổ chức các hoạt động phù hợp để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của truyền thông về quyền con người cho sinh viên.

Thứ hai, nâng cao năng lực truyền thông của các chủ thể truyền thông về quyền con người cho sinh viên

Nhà trường cần tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ viên chức quản lý, giảng viên và chuyên viên về quyền con người và truyền thông quyền con người cho sinh viên. Chú trọng lý thuyết và thực hành kỹ năng xử lý các tình huống liên quan việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người cho sinh viên trong các hoạt động học tập, giáo dục; các hoạt động thực hiện thủ tục hành chính liên quan quá trình học tập, giáo dục của sinh viên.

Bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các kỹ thuật dạy học hiện đại nhằm hiện đại hóa các kênh truyền thông về quyền con người cho sinh viên; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, khai thác nền tảng số trong truyền thông về quyền con người trong công tác quản lý, giảng dạy, phục vụ sinh viên.

Thứ ba, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện truyền thông về quyền con người cho sinh viên

Đội ngũ giảng viên nghiên cứu, lựa chọn nội dung truyền thông về quyền con người cho sinh viên để lồng ghép vào các giờ học chính khóa và lựa chọn hình thức, phương pháp truyền thông phù hợp với sinh viên, điều kiện phòng học, trang thiết bị dạy học của nhà trường.

Đa dạng hóa các kênh truyền thông và đổi mới cách truyền thông: Truyền thông trực tiếp được thực hiện theo kiểu 1 – 1 (1 giảng viên bộ môn – 1 sinh viên; 1 cố vấn học tập/ giáo viên chủ nhiệm – 1 sinh viên; 1 chuyên viên phòng, ban – 1 sinh viên); 1 – 1 nhóm (1 giảng viên – 1 nhóm thuộc lớp hoặc 1 lớp); truyền thông trong nhóm (thảo luận nhóm trong sinh viên và thảo luận của nhóm với giảng viên). Thông qua kênh truyền thông gián tiếp như: hệ thống các văn bản của nhà trường, của các khoa, phòng; bảng tin trong khuôn viên giảng đường; trường học; Website, tạp chí khoa học, mạng xã hội, đường dây nóng của trường; tài liệu, sách tham khảo trong thư viện.

Thứ tư, đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện cho công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên

Các cơ sở giáo dục đại học cần tiếp tục đầu tư nguồn sách, tài liệu tham khảo liên quan quyền con người, khuyến khích giảng viên biên soạn tài liệu truyền thông về quyền con người. Xây dựng các phòng học đa năng có trang thiết bị hiện đại, hạ tầng thông tin thông suốt để thực hiện các giờ giảng dạy, tổ chức diễn đàn, cuộc thi tìm hiểu về quyền con người cho sinh viên. Đầu tư cho các hoạt động ngoại khóa, thực tế, thực tập nghề nghiệp gắn với truyền thông quyền con người. Hoàn thiện hạ tầng thông tin, thiết lập môi trường số để tạo điều kiện thuận lợi cho tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về quyền con người cho sinh viên. Đầu tư kinh phí cho các giải pháp tăng cường công tác truyền thông về quyền con người cho sinh viên.

Thứ năm, tăng cường liên kết với các cơ sở nghiên cứu, giáo dục, cơ quan quản lý nhà nước trong truyền thông về quyền con người cho sinh viên nhằm tranh thủ, phát huy nguồn lực chuyên gia, tài liệu lý luận, thực tiễn… từ bên ngoài nhà trường giúp tạo thành sức mạnh tổng hợp cho việc truyền thông quyền con người cho sinh viên đạt hiệu quả.

Các đơn vị quản lý sinh viên, phòng ban chức năng cần chủ động xây dựng kế hoạch mời chuyên gia, nhà quản lý ở các cơ sở nghiên cứu về quyền con người, cơ sở giáo dục có đào tạo, bồi dưỡng về quyền con người trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về quyền con người cho viên chức quản lý, giảng viên, chuyên viên, sinh viên như: Viện Quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trường Đại học Luật Hà Nội; Trường Đại học Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội; Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và quyền công dân thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội liên kết, hợp tác với các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về nhân quyền, bảo vệ quyền con người như: Sở Tư pháp, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân …

Thu hút sự tham gia của đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý về quyền con người trong tư vấn bổ sung những chuyên đề, nội dung liên quan quyền con người vào chương trình đào tạo; chia sẻ, cung cấp tài liệu chuyên sâu về quyền con người, tạo điều kiện cho giảng viên được tiếp cận, nghiên cứu trong quá trình biên soạn, chỉnh sửa, bổ sung các học liệu dạy và học của nhà trường; tập huấn, bồi dưỡng viên chức quản lý, giảng viên, chuyên viên, nâng cao nhận thức, bổ sung kiến thức lý luận và thực tiễn về quyền con người, nâng cao năng lực truyền thông và trách nhiệm của các chủ thể truyền thông về quyền con người; sinh hoạt chuyên đề, tổ chức các cuộc thi, diễn đàn sinh hoạt tư tưởng cho sinh viên để nâng cao nhận thức, năng lực bảo vệ, bảo đảm quyền con người cho sinh viên.

Thứ sáu, phát huy vai trò của gia đình trong truyền thông về quyền con người cho sinh viên

Các khoa, các đơn vị quản lý sinh viên, các cố vấn học tập/giáo viên chủ nhiệm, cán bộ đoàn thanh niên quản lý tốt thông tin cá nhân, gia đình của sinh viên để có thể liên lạc, phối hợp kịp thời trong công tác giáo dục sinh viên và truyền thông về quyền con người cho sinh viên. Định hướng, động viên sinh viên thường xuyên giữ mối liên hệ với gia đình, cung cấp thông tin cho gia đình và nhà trường khi có những vấn đề liên quan quyền con người.

Cán bộ đoàn, cán bộ lớp luôn giữ mối quan hệ, gắn kết với sinh viên trong chi đoàn, liên chi đoàn, trong lớp để kịp thời nắm bắt diễn biến tư tưởng liên quan quyền con người; kịp thời thông báo gia đình, cố vấn học tập/giáo viên chủ nhiệm, lãnh đạo khoa, cán bộ đoàn thanh niên, ban chấp hành liên chi đoàn để có những biện pháp phối hợp với gia đình sinh viên giúp đỡ, hướng dẫn sinh viên bảo vệ, bảo đảm quyền con người.

Thứ bảy, đẩy mạnh hoạt động tự giáo dục của sinh viên trong công tác truyền thông về quyền con người

Giảng viên định hướng, gợi mở tri thức, hướng dẫn, hỗ trợ sinh viên học tập, nghiên cứu về quyền con người; khuyến khích sinh viên nâng cao ý thức tự giác trong học tập, nghiên cứu, thực hành việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người. Thông qua đó, giúp sinh viên hình thành thói quen chủ động, tự giác trong học tập, rèn luyện ý thức tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người.

Cố vấn học tập, giảng viên, chuyên viên các khoa, các phòng gợi mở, khích lệ sinh viên tổ chức các hoạt động, các diễn đàn sinh hoạt tư tưởng đa dạng, phong phú, hấp dẫn về quyền con người.

Cán bộ đoàn, cán bộ lớp thực hiện tốt vai trò là cầu nối giữa sinh viên với lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo khoa, giảng viên, viên chức; giữa sinh viên với sinh viên để tạo sự liên thông thông suốt về thông tin trong các hoạt động tự giáo dục của sinh viên.

_________________

TS NGUYỄN THỊ LUYẾN

TS HOÀNG THỊ NGỌC MINH

Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

TS HOÀNG DIỆU THẢO

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo LLCT

Các bài viết khác

Đang online: 1
Tổng truy cập: 330942